Nếu chân lý tuyệt đối của con người là sự cảm nhận được qua mọi nguyên nhân đau khổ của muôn loài trên mặt đất, thì triết lý của đạo Phật, từ lâu, quả là một hệ thống giáo dục tư tưởng thực tiển nhằm đào tạo cá tính con người đi lần vào một thế giới hài hòa, an lạc, thái bình và hạnh phúc.
Thực vậy, như một lâu đài ánh sáng soi đường cho tất cả chúng sinh không phân chia ranh giới, đạo Phật đã phá tan được những nghi ngờ và làm sáng tỏ ý nghĩa của chân lý tinh diệu, được thể hiện ra trong mọi hành động phán đoán bằng trí tuệ của con người.
Đó là ý thức tư tưởng tự do của Phật-Giáo đồ.
Với quan niệm tôn giáo phải làm gì cho con người trong cuộc sống, đạo Phật thủy chung không bỏ lỡ mọi cơ hội để khuyên nhắc người Phật-tử đừng vô tình mà đánh mất đi giá trị tinh thần căn bản theo đạo của mình bằng mọi sự mù quáng, mê tín, thiếu ý thức tư tưởng tự do vốn là sức sống cần thiết của mỗi cá nhân.
Sự lựa chọn tự do trước khi có quyết định ấy, nếu là sáng suốt, thì nó phải đương nhiên chấp nhận mọi sự khám phá ra những điều bí ẩn về cuộc đời, như nguyên nhân chính của sự - đau khổ và hạnh phúc - mà Đức Phật, một con người thực tế đã vẹn toàn giác ngộ về chân lý.
Ý nghĩa sâu xa, thâm thúy đó đã được dịp chứng minh rằng nền tảng triết lý của đạo Phật vốn không phải là một học thuyết siêu hình hay nghi thức, thiếu công dụng thực tế để không thể đáp ứng lại được với những nguyện vọng, nhu cầu khao khát của chúng sanh. Ngược lại, nó trực diện đòi hỏi cụ thể ở nơi người tín đồ cần thiết phải có được những đức tính, thái độ gần như là một điều kiện tiên quyết để phấn khởi tinh thần và sẵn sàng nhập cuộc bắt đầu sống theo đạo lý.
Đó là lòng can đảm.
Phải can đảm hứng nhận mọi trách nhiệm về quyền năng thưởng phạt của cuộc đời, là do chính mình tự tạo ra sự đau khổ hay hạnh phúc. Do vậy, những gì mà khẳng định nhất quyết cho rằng, mọi khổ đau và hạnh phúc nầy, là do bởi tội lỗi hay phước báu của gia tiên để lại, thì đều hoàn toàn có phần trái với ý thức hoán cải nhân duyên, tạo lại nghiệp quả đúng theo trong thuyết nhân quả của Thích-Ca Mâu-Ni. Vì rằng những người dày công tu tập thực hành lý thuyết của đạo Phật mà qua bao nhiêu năm nghiên cứu về pháp điển nầy, họ đều nhận thấy rõ ràng hơn ai hết là cái vòng xích nhân quả quay tròn rất khó mà phân biệt được ở đuôi đầu. Và hoàn toàn cần phải có một sự kiểm chứng chính xác về chu kỳ, thời điểm, để có thể tìm hiểu ra được lúc nào được gọi là nhân, lúc nào được gọi là quả ở trong một cuộc đời sát na đầy tục lụy.
Trong định luật vô thường của vũ trụ, mọi sự vật ở trên cõi đời nầy tuy có khi tụ, khi tan, tuy nhiên, không phải vì thế mọi hành động đều trở nên vô phản ứng, để rồi phát sinh ra những kết thúc và hậu quả có tầm giá trị khác nhau. Đối với những bản tính xấu xa của con người như tham, sân, si v.v...Và chung cuộc, để rồi tất cả cùng bị đắm chìm vào trầm mê bể khổ, thì trong đời sống của một thế hệ sẽ không biết có bao nhiêu trạng thái tâm hồn đã được dịp nẩy nở phát sinh, khi phải suy nghĩ nhiều về mọi sự chênh lệch trong mối tương quan bình đẳng và đồng đẳng của muôn loài chúng sanh.
Chính Đức Phật đã nghĩ ra ngay như vậy.
Cho nên, những ngày đầu tiên sau bao năm ẩn mình vào núi Tuyết trở về triều nội, Ngài đã không quên long trọng nói về ý nghĩa của một thông điệp, mà kinh điển trong pháp Tứ-Diệu-Đế là những lời răn dạy đơn sơ, bình dị nhưng cũng lại là một kho báu triết lý cao siêu, hàm súc vô vàn ý nghĩa bao la vô cùng tận. Và ngày nay, chúng ta có thể nói chính do kinh pháp của đạo Phật đã mang đến mọi niềm cảm khái cho loài người một khi sàng lọc được tâm hồn để thảnh thơi trở thành toàn thiện. Vả chăng, muốn thực hiện được điều nầy thì luân lý, triết học của đạo Phật chỉ mong sao tín đồ trước hết phải có ý nguyện phát tâm để cho lòng trong sạch, tâm không còn bị động loạn hầu lắng chìm mọi lớp bụi thời gian. Và phân biệt u minh hai nẻo chánh tà, để làm lành, lánh dữ, biết sử dụng phương tiện phát triển tinh thần trên con đường tu học chánh pháp.
Đi sâu vào quan niệm tự do khai phóng của đạo Phật, người Phật-tử thấy rằng giáo lý của am thiền hoàn toàn chấp nhận sự tôn trọng bản năng sáng tạo của mọi người trong cộng đồng nhân loại. Và lúc nào cũng mong muốn có những sự thỏa hợp, giải quyết thuận nhân sinh trong ý thức nhân quyền. Nhưng nếu những ai còn nghi ngờ, muốn biết rõ hơn về quan niệm nầy của đạo Phật ra sao thì hãy bình thản, thực tế nhìn vào đặc tính căn bản hiếu hòa, khoan dung và nhẫn nhục trong lời kinh kệ ở chốn thiền môn hằng ngày, ngay cả từ việc tránh sát sanh, dưỡng sinh kiêng cữ đúng theo giới trai. Vì vậy, cho dù có được phê bình đến đâu đi nữa, thì người ta cũng vẫn không sao phủ nhận được về tầm ảnh hưởng quan trọng của giáo lý Bồ-Đề đã bén rễ, ăn sâu vào từng các tế bào trong đời sống làng mạc dân gian của con người từ hàng thế kỷ trôi qua.
Cũng trong ý nghĩa đó, người ta nhận thấy rõ ràng là - ngoài những bậc hành giả có đạo hạnh và đạo lực cao - thì người Phật-tử vẫn chính là người cầm chìa khóa để mở cửa đi vào mái nhà hạnh phúc của cá nhân mình, miễn là, biết tự chủ được bản ngã để tiến tới địa vị của một kiến trúc sư của tâm hồn, và có thể làm đổi thay định mệnh trong cuộc sống. Chính phương pháp thiền định đã giúp ích rất nhiều cho người Phật-tử lấy sự thanh tịnh chinh phục nội tâm trên con đường đi đến giác ngộ tìm chân lý. Và Niết-Bàn do vậy mà cũng được mở ra cho những con người có tâm hồn hướng thượng dễ dàng tìm thấy ở bất cứ lúc nào.
Điểm độc đáo của đạo Phật trong cuộc sống không phải vì được con người nể phục qua những lượng Hỉ-Xả, đức Từ-Bi mà chính vì trong lòng đặc tính căn bản, nguyên thủy của nó đã có nhiều giá trị siêu việt, thách thức cả khoa học vào những khái niệm của định luật vô thường trong vật thể.
Do đó, ngoài những danh từ tôn xưng Đức Phật trong tôn giáo, các nhà xã hội học, các sử gia trên thế giới hiện đại đều còn gọi Ngài là một nhà khoa học tiền bối, một nhà tâm lý học hoàn hảo của thế gian, xứng đáng để hướng dẫn Con Người làm một cuộc cách mạng tâm linh ở đời. Và như vậy, tưởng không có một danh từ nào có thể gọi ra, để cho đúng hết với ý nghĩa hơn là Bậc Đại-Sư vượt lằn ranh của cái mốc giới hạn thời điểm không gian ‘’vạn thế sư biểu’’. Lý do, vì Ngài là một đấng đã vẹn toàn giác ngộ tìm ra chân lý tuyệt hảo để lại đời đời cho hậu thế. Hơn thế nữa, chính nhân vật cao quý đó, con người ung dung tự tại đó, nhà làm cách mạng tâm linh có tầm cỡ đó mà lại luôn luôn lúc nào cũng chỉ muốn thành thật khiêm nhường khi nói:
... chúng sinh là Phật sẽ thành.
Đúng! Ngài là một người đầy tớ khiêm tốn và cao thượng nhất của loài người. Và Ngài đã không ngần ngại vén bức màn u minh của nghị trường thế gian để cho thấy cuộc thương lượng, hay nói cho đúng hơn, là cuộc tranh chấp giữa ánh sáng và bóng tối phải được phân minh thắng bại, khi trí tuệ của con người đã biết phán xét mọi tốc độ vận hành của bánh xe chánh pháp chuyển luân, mà người ta không phải đơn thuần nhin thấy để tin theo. Ngược lại, phải thí nghiệm, thực hành để nhìn nhận mọi kết quả cụ thể nhãn tiền...
Thử nhìn lại nhiều sự kiện hóa thân của Đức Phật sau khi Ngài tịch diệt mà không phân biệt ở bất cứ ở bất cứ quốc gia nào cho dù là ngay cả Tây-Tạng, Ấn-Độ hoặc Trung-Quốc v.v...Sự hóa thân ấy nếu không là do ở tấm lòng sùng kính vô vàn của người Phật-tử trước tấm gương trong sáng của Đức Cao-Dày, thì cũng còn là do ở những sự ứng nghiệm linh thiêng của kho tàng pháp điển, đã được tìm thấy thực tế từ thuở sơ khai trí tuệ của con người cách đây chừng hai mươi lăm thế kỷ, cho đến ngay cả thời kỳ văn minh tột độ của ngày hôm nay. Với mục đích toàn thiện là khuyên nhủ con người hãy tự chế mọi khoái lạc trần gian, để tìm về sinh lộ hạnh phúc. Giáo lý nhà Phật đã nói đến rất nhiều về ý nghĩa của giọt sương tan trên ngọn cỏ bồng, để gây ý thức cảnh tỉnh nhân sinh trước cuộc đời Sắc Không suy thịnh. Vì rằng cho dù nếu có sừng sững hiên ngang bốn mùa tuyết phủ như rặng Hy-Mã-Lạp-Sơn, hay như cành liễu mềm đu đưa trước gió, thì cũng phải đều ngả mũ chào thua trước sức mạnh ý chí của con người. Ý chí đó là tấm lòng thủy chung sùng đạo để tạ ơn bậc Đại-sư sáng lập, mở khai chân lý của ánh đạo vàng.
Chính đạo Phật đã giúp cho mọi sự liên hệ giữa con người (viết hoa) trong cuộc sống được thăng bằng, và thể hiện qua tinh thần hòa ái, bao dung. Riêng đối với cá nhân thì tôi luyện được ý chí can đảm, gột rửa được những nỗi khổ đau, sợ hãi, lo âu, mất tính tự chủ, xoa dịu được nhiều cho những tâm hồn phiền muộn. Tác dụng của tình thương bao la qua lòng Từ-Bi, Hỉ-Xả vô bờ bến đó đã làm cho hầu hết mọi người, dù có đạo hay không theo đạo, cũng đều nhiệt tâm ra sức đón chào với một niềm hân hoan tột độ và đồng thanh tôn kính Đức Thế-Tôn như là một bậc đại hiền tài, một vị lãnh tụ tôn giáo tối cao của lịch sử nhân loại.
Hơn thế nữa, sau khi tìm thấy được những ý nghĩa của mục tiêu trên con đường Trung-Đạo của Phật-pháp đi qua, thì mọi người còn cân nhắc thêm rằng, đây là một tôn giáo có mặt lâu đời nhất trong hành tinh, có thành tích phát triển tinh thần song hành với nền văn minh khoa học ở chiều sâu quá trình lịch sử. Một tôn giáo có khả năng phân tích bản chất thực sự của tâm thức con người như đạo Phật, cho đến ngày hôm nay, mà học thuyết thăng hoa của nó lại còn là một thứ bức tường đồng lý luận sắc bén, chứng minh, thì đủ hiểu thế nào là cái giá trị thực tế của một tôn giáo duy nhất trên quả địa cầu nầy đang trực diện trước mọi khái niệm tiến hóa hiện đại của con người được kết luận coi như là hoàn hảo.
Và như vậy, dù thật khó để mà đặt vấn đề phải lựa chọn giữa tôn giáo và khoa học để làm lẽ sống, nhưng một khi trong nội dung của lẽ đạo đã sẵn có khoa học tính rồi, thì chắc chắn, người tín đồ sẽ không bao giờ còn ngần ngại trước ngã hai đường. Họ sẽ đòi hỏi phải có một sự bổ sung trên căn bản hợp lý, để hầu xây dựng con người hướng tiến lần về một đời sống kiện toàn, cao cả hơn.
Tóm lại, cứu cánh của đạo Phật là nhằm mục đích giải thoát tối hậu con người ra khỏi vòng u minh, đen tối, để giác ngộ và cùng hưởng mọi sự an lạc, hạnh phúc của tâm hồn. Và nền tảng triết lý của đạo Phật còn là một môi trường thuận tiện, để cho mọi điều Thiện được dịp phát sinh, không những cho mình mà còn giúp được người đời giảm thiểu ít nhiều đau khổ. Tin mừng đó đã được người Phật-tử khắp nơi bây giờ chấp nhận trong tinh thần tự do của trí tuệ sau những thì giờ gậm nhấm, suy tư bên cạnh lời kinh, câu kệ ở cửa thiền.
Ngày nay, hầu hết Phật-giáo đồ ở khắp các nơi trên thế giới đều có một trình độ khá cao về pháp điển. Vì thế, tính chất và ý nghĩa của đạo Phật cũng đã được phơi bày một cách công khai và thành thực để cho tất cả mọi người cùng hiểu rằng:
- Chúng ta là kết quả của những gì mà chúng ta đã làm, và sẽ là hậu quả của những gì mà chúng ta đang hiện hữu.
nguồn :( ghpgvntnhk.com)
nguồn :( ghpgvntnhk.com)
0 comments